Showing posts with label virut. Show all posts
Showing posts with label virut. Show all posts

Chữa đau mắt đỏ cực nhanh bằng các vị thuốc Nam dễ kiếm

Chữa đau mắt đỏ cực nhanh bằng các vị thuốc Nam dễ kiếm

Dịch đau mắt đỏ đang diễn biến bất thường. Theo y học cổ truyền, đau mắt đỏ gọi là hồng nhãn, hỏa nhãn. Bạn có thể tham khảo cách chữa đau mắt đỏ nhanh bằng các bài thuốc dưới đây.

Đau mắt đỏ còn gọi là viêm kết mạc cấp (nguyên nhân do virut là chủ yếu), có thể xảy ra ở nhiều lứa tuổi, thường hay gặp vào mùa hè. Bệnh lây lan trong cộng đồng, tạo nên dịch viêm kết mạc cấp. Theo y học cổ truyền, đau mắt đỏ gọi là hồng nhãn, hỏa nhãn. Nguyên nhân do cảm nhiễm độc khí lưu hành trên diện rộng hiệp với thấp nhiệt gây nên. Dưới đây là bài thuốc theo từng thể bệnh.

Thể nhẹ: Bệnh nhân tự nhiên thấy ngứa cộm, nước mắt chảy ra nhiều, phần lòng trắng chuyển sang màu hung sau đỏ tươi, kèm đau đầu, đau mắt, chói sợ ánh sáng, nhiều nước mắt, có dử đặc...

Lá dâu (tang diệp) là vị thuốc có thể chữa đau mắt đỏ thể nhẹ
Lá dâu (tang diệp) là vị thuốc có thể chữa đau mắt đỏ thể nhẹ
 

Các bài thuốc uống chưa đau mắt đỏ:

 
Bài 1: kim ngân hoa 16g, chi tử 12g, hoàng đằng 8g, chút chít 12g, kinh giới 12g, bạc hà (cho sau) 6g, lá dâu 16g, cúc hoa 12g. Sắc uống. 
 
Bài 2: kim ngân 16g, liên kiều 12g, chi tử 8g, hoàng cầm 12g, bạc hà (cho sau) 6g, ngưu bàng tử 12g, cát cánh 6g. Sắc uống. 
 
Bài 3: tang diệp 6g, cúc hoa 6g, đạm trúc diệp 30g, bạch mao căn 30g, bạc hà 4g; hãm với nước sôi thêm chút đường uống thay trà. Chữa viêm kết mạc mắt cấp tính (đau mắt đỏ). 
 
Bài 4: tang diệp 12g, cúc hoa 12g, thảo quyết minh 8g. Sắc uống. Trị viêm kết mạc, mắt đỏ sưng đau.
 
Thuốc dùng ngoài: - Lá phù dung (tươi, non) 1 - 2 lá, muối biển 5 - 10 hạt. Giã nát, cho lên gạc đắp vào mắt, 1 - 2 ngày.
 
- Tang diệp 63g, mang tiêu 12g. Sắc lá dâu lấy 500ml nước, bỏ bã, hoà tan mang tiêu, gạn lấy nước trong rửa mắt khi còn ấm. 
 
Thể nặng: Ngoài những chứng trạng như thể nhẹ, bệnh phát nhanh, hai mắt sưng to, đau nhức, nước mắt nước mũi đầm đìa, sợ lạnh, sốt, nằm ngồi không yên. Nếu nặng hơn thì người bệnh không ngủ được, ăn không ngon. Dùng bài: Bát chính tán: đại hoàng 10g, mộc thông 12g, xa tiền tử 12g, cù mạch 12g, biển súc 12g, hoạt thạch 12g, chi tử 12g, cam thảo chích 8g. Sấy khô tán bột mịn. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 20g, uống với nước sắc đăng tâm thảo. 
 
Lưu ý: Bệnh lây lan đường hô hấp, tay - mắt; vì vậy, bệnh nhân và người chưa mắc bệnh phải có ý thức phòng bệnh. Vệ sinh thân thể sạch sẽ, đảm bảo nguồn nước tắm rửa sạch.
 
Thường xuyên rửa mắt bằng nước muối sinh lý 0,9%. Nên hạn chế tiếp xúc, tránh dùng chung đồ dùng cá nhân với người bệnh như khăn mặt, chăn gối... Nếu có điều kiện nên cách ly người bệnh (nghỉ học, nghỉ làm việc...).
 
Khi mắc bệnh cần đi khám chuyên khoa để sàng lọc một số bệnh cũng có dấu hiệu đỏ mắt. Các giấy, bông lau... là nguồn gây bệnh quan trọng nên để riêng. Khăn mặt, chăn gối... phải giặt bằng xà phòng.
 
Nếu có biểu hiện toàn thân (sốt nhẹ, người mệt mỏi, viêm họng nhẹ, nuốt thấy vướng, hạch trước tai sờ nắn thấy đau...) có thể xông toàn thân bằng nồi nước xông có thêm trầu không.

Bài "Chữa đau mắt đỏ cực nhanh bằng các vị thuốc Nam dễ kiếm"
Theo Sức khỏe Đời sống

Cách phòng ngừa lây virus nguy hiểm Ebola

Tính từ tháng 12/2013 đến 7/2014, trên thế giới đã ghi nhận 1.201 trường hợp nhiễm virus Ebola, trong đó đã có 672 trường hợp tử vong tại 3 nước vùng Tây Phi.

Trước tình hình diễn biến dịch bệnh này tại các nước vùng Tây Phi và nguy cơ dịch bệnh có thể lây lan, Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) đã cung cấp thông tin và đưa ra khuyến cáo một số biện pháp để người dân chủ động phòng chống dịch bệnh.

Theo đó, Cục Y tế dự phòng cho biết, bệnh Sốt xuất huyết do virus Ebola là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, nguy hiểm.

Virus Ebola. Cụ thể, nước Guinea ghi nhận 427 trường hợp tử vong, Liberia 249 trường hợp và Sierra Leone 525 trường hợp.
Virus Ebola. Cụ thể, nước Guinea ghi nhận 427 trường hợp tử vong, Liberia 249 trường hợp và Sierra Leone 525 trường hợp.

Virus Ebola lây sang người thông qua tiếp xúc với máu, chất tiết, bộ phận cơ thể hoặc dịch thể khác của người, động vật bị nhiễm bệnh.

Các triệu chứng khi nhiễm virus Ebola gồm: Sốt, mệt mỏi, đau cơ, đau đầu, đau họng hoặc có thể có nôn, tiêu chảy, phát ban, chảy máu.

Những người có khả năng mắc cao là những người có tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết của người hoặc động vật bị bệnh.

Hiện nay, bệnh Sốt xuất huyết do virus Ebola chưa có vaccine dự phòng. Vì vậy, để chủ động phòng bệnh, người dân cần thực hiện vệ sinh cá nhân (rửa tay bằng xà phòng, chất sát khuẩn…), tránh tiếp xúc trực tiếp với máu, dịch tiết của người, động vật nhiễm bệnh; không cầm/nắm các vật có thể đã tiếp xúc với máu, dịch tiết của người, động vật nhiễm bệnh trước đó.

Nếu ai đang ở vùng có dịch mà xuất hiện các triệu chứng: Sốt, đau đầu, đau họng, tiêu chảy, nôn, đau dạ dày, phát ban, đỏ mắt thì cần đến ngay các cơ sở y tế để có biện pháp xử trí kịp thời.

Phòng tránh virus Ebola bằng cách nào?

 Virus Ebola lây nhiễm sang người như thế nào

Virus Ebola lây truyền từ động vật sang người khi tiếp xúc gần với máu, chất tiết của động vật bị nhiễm; lây truyền từ người sang người do tiếp xúc trực tiếp với máu, các chất tiết của cơ thể (phân, nước tiểu, nước bọt, tinh dịch) của người mắc bệnh, hoặc các vết xước trên da, niêm mạc của người lành tiếp xúc với môi trường bị ô nhiễm với các chất tiết của người nhiễm virus (quần áo, ga trải giường nhiễm bẩn hay kim tiêm đã qua sử dụng).

Ảnh: AFP.
Thế giới đang đối mặt nguy cơ dịch Ebola lan rộng. Ảnh: AFP.
Người có nguy cơ cao nhiễm virus này

Trong dịch bệnh sốt xuất huyết do virus Ebola, các nhóm có nguy cơ cao nhiễm virus gồm: 
- Thành viên gia đình hay người tiếp xúc gần với người mắc bệnh.
- Người đi dự tang lễ tiếp xúc trực tiếp với thi thể người chết do nhiễm virus Ebola.
- Người đi săn tiếp xúc với động vật chết do nhiễm virus Ebola trong rừng.
- Cán bộ y tế.
Cách phòng ngừa lây virus nguy hiểm Ebola

Dấu hiệu nhận biết và triệu chứng bệnh do virus Ebola

- Người mắc bệnh do virus Ebola thường xuất hiện triệu chứng như sốt đột ngột, mệt mỏi kéo dài, đau cơ, đau đầu, đau họng.
- Tiếp theo là các triệu chứng nôn, tiêu chảy, phát ban, suy thận, suy gan.
- Một số trường hợp bị chảy máu trong nội tạng và chảy máu ngoài.
- Thời gian ủ bệnh từ 2 đến 21 ngày.
Bệnh nhân dễ lây truyền bệnh ngay khi bắt đầu xuất hiện triệu chứng.

Khi nào nên đi khám

Nên đến ngay cơ sở y tế nếu sống trong khu vực có dịch bệnh do virus Ebola hay khi tiếp xúc với người nhiễm hay nghi ngờ nhiễm virus Ebola và khi bắt đầu thấy xuất hiện các triệu chứng của bệnh.

Bất kỳ trường hợp nghi ngờ mắc bệnh nào cũng cần được thông báo ngay cho cơ quan y tế gần nhất và được chăm sóc y tế nhằm giảm nguy cơ tử vong. Cần kiểm soát sự lây truyền của bệnh và tiến hành ngay các biện pháp phòng chống nhiễm khuẩn.

Phương pháp điều trị bệnh sốt xuất huyết do virus Ebola

Bệnh nhân mắc bệnh sốt xuất huyết do virus Ebola cần được điều trị tích cực, được bù nước với các dung dịch điện giải qua đường uống hay truyền tĩnh mạch. Hiện chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu cho bệnh này. Nhiều bệnh nhân đã khỏi bệnh sau khi được chăm sóc y tế thích hợp.

Để kiểm soát sự lây truyền của virus, người mắc bệnh hay nghi ngờ mắc bệnh cần được cách ly với các bệnh nhân khác trong cơ sở y tế và được nhân viên y tế điều trị với việc tuân thủ các biện pháp phòng chống nhiễm khuẩn đã khuyến cáo.

Làm gì để phòng nhiễm virus Ebola

Hiện chưa có văcxin phòng bệnh do virus Ebola. Nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ của bệnh và các biện pháp phòng tránh cho người dân hiện nay là biện pháp duy nhất để giảm số ca mắc và tử vong.

Do virus Ebola lây truyền từ người sang người, các biện pháp sau đây có thể được thực hiện để phòng chống lây nhiễm và hạn chế hay cắt đường lây truyền bệnh:

- Hiểu rõ đặc điểm của bệnh, đường lây truyền, biện pháp phòng chống dịch bệnh.
- Nếu nghi ngờ một ai đó nhiễm virus Ebola, cần động viên và giúp đỡ họ đến khám và điều trị tại cơ sở y tế.
- Nếu có ý định chăm sóc bệnh nhân mắc virus Ebola tại nhà, cần thông báo cho cán bộ y tế để được cung cấp găng tay, phương tiện phòng hộ cá nhân và được hướng dẫn cách chăm sóc bệnh nhân, cách bảo vệ bản thân và gia đình khỏi bị lây nhiễm, cách tiêu hủy phương tiện sau khi sử dụng.
- Khi thăm bệnh nhân trong bệnh viện hay chăm sóc bệnh nhân tại nhà, cần rửa tay với xà phòng hoặc chất sát khuẩn sau khi tiếp xúc với người bệnh, hay tiếp xúc với dịch tiết cơ thể hoặc sờ vào các vật dụng của người bệnh.
- Cần tránh tiếp xúc với các động vật có nguy cơ cao nhiễm virus Ebola như dơi ăn quả, khỉ, hay vượn... tại khu vực có rừng nhiệt đới.
- Không giết mổ động vật nghi ngờ bị nhiễm bệnh.
- Thịt và tiết của động vật nên được nấu chín kỹ trước khi ăn.
- Người đi du lịch cần tránh mọi tiếp xúc với người mắc bệnh. Nếu từng ở những nơi có các trường hợp mắc mới được thông báo, nên theo dõi xem có thấy xuất hiện các triệu chứng của bệnh, và đến ngay cơ sở y tế nếu thấy có các dấu hiệu bệnh đầu tiên.

Những điều cơ bản bạn cần biết về Virus Ebola

Những điều cơ bản bạn cần biết về Virus Ebola

Một loạt các nước châu Âu và châu Á đang cảnh giác cao độ vì lo ngại rằng, dịch Ebola ở Tây Phi có thể tràn sang những châu lục khác, sau khi một tổ chức tình nguyện lên tiếng cảnh báo "dịch bệnh đã vượt khỏi tầm kiểm soát".

 



Bác sĩ Sheik Umar Khan, người đứng đầu cuộc chiến chống dịch Ebola tồi tệ nhất từ trước đến nay ở Sierra Leone, đã chết do nhiễm vi rút này hôm thứ ba tuần trước. Ông qua đời chưa đến một tuần sau khi có chẩn đoán nhiễm căn bệnh này. Bác sĩ Sheik Umar Khan đã đảm nhiệm việc điều trị cho hơn 100 bệnh nhân.


Cái chết của ông xảy ra sau khi hàng chục nhân viên y tế địa phương đã chết vì căn bệnh này, và hai nhân viên y tế người Mỹ ở nước láng giềng Liberia cũng bị nhiễm bệnh.


Theo Tổ chức Y tế thế giới, tính đến ngày 20/7, số ca nhiễm Ebola đã lên tới mức kỷ lục trong vụ dịch kéo dài nhiều tháng, ở mức 1.093 trường hợp, bao gồm hơn 660 người chết. Guinea, Liberia và Sierra Leone là những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của vụ dịch lần này. Nigeria, nước đông dân nhất châu Phi, đã ghi nhận ca tử vong đầu tiên ngày 25/7.


Dưới đây là những điều cần biết về Ebola, một trong nhiều vi rút gây sốt xuất huyết.





1. Tổ chức y tế thế giới gọi đây là “một trong những bệnh dễ gây chết người nhất từng được biết đến”.

2. Bệnh có thể gây tử vong đến 90% số người nhiễm.
Cho đến nay đã xác định được năm “loài” Ebola, được đặt tên là Bundibugyo, Sudan, Zaire, Tai Forest và Reston. 3 loài đầu tiên đặc biệt nguy hiểm, với tỷ lệ tử vong tới 90%.Zaire là một trong những tâm điểm của đại dịch lần này. Loài Reston cũng đã được phát hiện ở Trung Quốc và Philippines, nhưng chưa có trường hợp tử vong liên quan nào được báo cáo ở những nước này cho đến nay.

3. Vi rút xuất hiện lần đầu tiên năm 1976 ở Nzara, Sudan và ở Yambuku, Cộng hòa dân chủ Congo.
Vi rút được lấy tên từ sông Ebola, nằm gần ngôi làng ở Yambuku nơi dịch xảy ra.

4. Cả người và động vật đều có thể nhiễm Ebola




Vi rút lây qua tiếp xúc gần với máu, dịch tiết hoặc các dịch cơ thể khác. Dơi ăn hoa quả được xem là vật chủ tự nhiên của vi rút Ebola.

5. Vi rút lây lan nhanh chóng từ người sang người, khi gia đình và bạn bè chăm sóc cho người bệnh

Những người có nguy cơ mắc phải Ebola là những người phải tiếp xúc trực tiếp với nguồn bệnh. Đó có thể là: Người nhà bệnh nhân, những người tiếp xúc gần với bệnh nhân, người dự tang lễ bệnh nhân và có tiếp xúc trực tiếp với thi thể người nhiễm bệnh, người đi săn tiếp xúc với xác động vật chết do nhiễm Ebola và các cán bộ y tế chăm sóc người bệnh Ebola.


6. Triệu chứng có thể xuất hiện sau khi tiếp xúc 2 – 21 ngày.

Các triệu chứng sớm như phát ban và đỏ mắt rất phổ biến, khiến khó chẩn đoán bệnh ở giai đoạn sớm. Triệu chứng của Ebola thường giống với những triệu chứng ốm, sốt như suy nhước, đau cơ, đau đầu và đau họng. Tiếp đến, bệnh nhân sẽ ói mửa, tiêu chảy và phát ban, suy giảm chức năng của thận và gan. Ebola cũng có thể gây ra chảy máu từ mắt, tai, mũi, miệng và trực tràng, làm sưng mắt và bộ phận sinh dục. Thông thường, các triệu chứng sẽ bắt đầu xuất hiện rõ rệt từ 8 - 10 ngày sau khi tiếp xúc.


 
7. Vi rút lan ra trong máu và làm tê liệt hệ miễn dịch.


Ebola thường đặc trưng bởi sốt đột ngột,cực kỳ yếu mệt, đau cơ, đau đầu và đau họng.Tiếp theo đó là nôn, tiêu chảy, phát ban, suy thận và suy gan, và một số trường hợp bị chảy máu cả bên ngoài và bên trong, như chảy máu cam hoặc tiểu ra máu.


8. Hiện chưa có vắc-xin hoặc thuốc điều trị đặc hiệu cho cả người và động vật.


Đúng vậy, tính đến thời điểm này, chúng ta không có một phương thuốc và vaccine nào có thể chích ngừa Ebola. Tuy nhiên, chúng ta vẫn nên hy vọng bởi theo một vài báo cáo của WHO thì đang có một vài loại vaccine được thử nghiệm, một trong những loại vaccine đó có hiệu quả khá hứa hẹn trên khỉ, và mong liều vắc-xin này sớm có trong tương lai gần.



Webtretho tổng hợp/Theo WHO, Asiaone

Cách chữa bệnh thủy đậu nhanh khỏi không để lại sẹo

CÁCH CHỮA BỆNH THỦY ĐẬU

Điều trị bệnh thủy đậu ở trẻ em

Thủy đậu là bệnh truyền nhiễm do virus Varicella Zoster gây ra. Bệnh lây truyền qua đường hô hấp nên thường phát triển thành dịch. Thời tiết chuyển mùa, không khí nóng ẩm tạo điều kiện cho virut gây bệnh phát triển mạnh. Điều đáng lo ngại là năm nay đã có người lớn mắc thủy đậu và thường có biến chứng viêm não nặng, 1 trường hợp đã tử vong tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP.HCM tháng 1/2013.

Biểu hiện của bệnh thủy đậu

Bệnh thủy đậu trải qua 4 thời kỳ: Thời kỳ ủ bệnh trung bình từ 14 - 15 ngày. Nếu bệnh nhân suy giảm miễn dịch, thời kỳ này có thể ngắn hơn. Thời kỳ khởi phát (24-48h), người bệnh sốt nhẹ, sốt cao ở bệnh nhân suy giảm nhiễm dịch kèm theo mệt mỏi, chán ăn, nhức đầu và phát ban (tiền thân của bóng nước) là những hồng ban nổi trên nền da bình thường. Thời kỳ toàn phát (thời kỳ đậu mọc): giảm sốt, nổi bong bóng nước trên nền da màu hồng, sau đó các nốt phỏng xuất hiện ở da đầu, mặt, lan xuống thân và tay chân với số lượng nhiều ít khác nhau tùy từng cơ thể. Thời kỳ hồi phục: sau khoảng 1 tuần, hầu hết bóng nước đóng mày, đa số không để lại sẹo trừ các bóng nước bị bội nhiễm.

Thủy đậu có các biến chứng gì?

Khi các mụn nước vỡ ra và bị nhiễm khuẩn có thể gây sẹo xấu, đặc biệt, khi bệnh nhân gãi nhiều ở vùng tổn thương, đây là biến chứng hay gặp nhất ở trẻ nhỏ.


Tiêm phòng là biện pháp hữu hiệu nhất phòng bệnh thủy đậu

Biến chứng khác thường gặp là tổn thương thần kinh trung ương bao gồm: viêm não (nhức đầu, co giật, rối loạn ý thức), tổn thương thần kinh (liệt thần kinh) và hội chứng Reye (kết hợp tổn thương gan và não, có khả năng gây tử vong), viêm phổi. Các biến chứng đặc biệt nặng có thể xảy ra trên bệnh nhân AIDS, luput, bệnh bạch cầu, bệnh ung thư và bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn dịch như corticoid. Trẻ sơ sinh có mẹ bị thủy đậu ở 3 tháng cuối của thai kỳ sẽ chịu những nguy cơ cao của bệnh. Nếu mẹ phát bệnh thủy đậu 5 ngày trước hoặc 2 ngày sau khi sinh, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh có thể lên đến 30%.

Điều trị bệnh thủy đậu

Quan trọng nhất trong chăm sóc và điều trị thủy đậu là làm sạch da và vệ sinh thân thể: tắm rửa bằng các dung dịch sát khuẩn, thay quần áo nhiều lần trong ngày, cắt ngắn và vệ sinh móng tay, tránh cọ xát làm các bóng nước bị vỡ. Dùng kháng sinh chỉ khi nghi ngờ có biểu hiện bội nhiễm.

Điều trị triệu chứng: Ngứa là triệu chứng gặp ở hầu hết bệnh nhân bị thủy đậu, đặc biệt ở những bệnh nhân có nổi nhiều bóng nước. Thuốc có thể dùng là các thuốc kháng histamin như: chlopheniramin, loratadine…, ngoài ra, dùng các thuốc bôi tại chỗ như hồ nước và xanh methylen cũng có hiệu quả rõ rệt. Xanh methylen là loại thuốc sát khuẩn nhẹ có dạng dung dịch dùng ngoài 1% hoặc dung dịch milian (gồm xanh methylen, tím gentian, ethanol, nước cất…). Khi bệnh nhân đau và sốt cao, có thể cho dùng acetaminophen, không sử dụng aspirin vì có thể gây hội chứng Reye.

Điều trị đặc hiệu bằng thuốc kháng virut: Thủy đậu là một bệnh lành tính, thuốc kháng virut chỉ dùng trong trường hợp bệnh nặng, phòng biến chứng viêm phổi thủy đậu, biến chứng nội tạng hoặc các bệnh nhân có suy giảm miễn dịch như HIV/AIDS, phụ nữ có thai, người mới ghép tạng, sử dụng corticoid dài ngày. Tuy nhiên, do bệnh thường gặp nặng ở đối tượng trẻ vị thành niên và người lớn nên có thể cân nhắc sử dụng thuốc cho các đối tượng này.

Acyclovir (adenin guanosine): Acyclovir là một thuốc kháng virut thuộc nhóm ức chế ADN polymerase. Là dẫn xuất guanosin vào cơ thể dưới tác dụng của thymidin kynase và một số enzym khác tạo thành acyclovir triphosphat, đây là chất một mặt ức chế cạnh tranh với ADN polymerase của virut nên ức chế sự nhân đôi của ADN; mặt khác, nó gắn vào cuối chuỗi ADN và đóng vai trò là chất kết thúc chuỗi ADN, vì vậy, nó ức chế sự nhân lên của virut. Điểm đáng chú ý là nồng độ của acyclovir triphosphat trong tế bào nhiễm virut cao gấp 50 - 100 lần ở tế bào lành và ADN của virut nhạy cảm với acyclovir triphosphat hơn ADN của tế bào vật chủ nên độc tính của acyclovir triphosphat với tế bào lành ít hơn rất nhiều so với tế bào bị nhiễm virut. Acyclovir có thể dùng đường uống, đường tiêm hoặc đường tại chỗ (bôi ngoài da), thuốc phân bố rộng rãi vào dịch cơ thể và các cơ quan như thận, não, gan, phổi... và thức ăn không làm ảnh hưởng tới khả năng hấp thu thuốc. Thời gian bán thải từ 3 - 4 giờ nên thường sau 4 - 5 giờ sẽ dùng thuốc một lần. Thuốc có hiệu quả nhất nếu khi sử dụng trong vòng 24h trước khi nổi bóng nước, trung bình 5 - 7 ngày hoặc đến khi không có bong bóng nước mới xuất hiện nữa.

Liều lượng phụ thuộc lứa tuổi hoặc cân nặng (đối với trẻ nhỏ). Trường hợp nặng hơn hoặc có biến chứng như viêm màng não, trẻ suy giảm miễn dịch, có thể dùng acyclovir đường tĩnh mạch.

Biện pháp phòng ngừa bệnh thủy đậu

Khi trong gia đình, trường học, công sở... có người mắc bệnh, cần cách ly bệnh nhân 7 - 10 ngày để tránh lây lan cho cộng đồng. Nếu trẻ ở độ tuổi đi học, khi mắc bệnh phải nghỉ học và người lớn phải nghỉ làm 1 - 2 tuần. Tuy nhiên, việc cách ly bệnh nhân không bảo đảm ngừa được bệnh cho người khác vì siêu vi có thể lây lan từ trước khi phát mụn nước và sau khi mụn nước đã lành.

Tạo miễn dịch thụ động: Tiêm globin miễn dịch như VZIG (Herpes – Zoster immune globin) hay HZIP (Herpes – Zoster immune plasma) cho những người suy giảm miễn dịch sau khi tiếp xúc trực tiếp với người bị thủy đậu. Các đối tượng có chỉ định dùng bao gồm: trẻ dưới 15 tuổi bị suy giảm miễn dịch chưa bị thủy đậu hoặc chưa được chủng ngừa, trẻ sơ sinh sinh ra từ các bà mẹ bị thủy đậu trong vòng 5 ngày trước hoặc 2 ngày sau sinh. Thuốc chỉ cần 1 liều duy nhất.

Tạo miễn dịch chủ động: Tiêm vaccin để ngừa thủy đậu là giải pháp hiệu quả nhất hiện nay. Khả năng dự phòng đạt 90 - 100% với thủy đậu nặng và 70 - 90% với thủy đậu nhẹ. Vaccin ngừa thủy đậu tạo được miễn nhiễm lâu dài gần như suốt đời, tính an toàn cao, ít tác dụng phụ.

Hiện nay, các bác sĩ khuyến cáo nên tiêm tiêm phòng thủy đậu cho hầu hết các trẻ em. Chỉ cần tiêm 2 mũi. Mũi đầu tiên tiêm lúc trẻ 1 tuổi và mũi thứ hai (tiêm nhắc lại) lúc 4 tuổi. Đối với người lớn chưa bị thủy đậu, có thể tiêm phòng vào bất cứ lúc nào.

Chữa trị bệnh thủy đậu ra sao?

Điều trị bệnh thuỷ đậu chủ yếu là điều trị triệu chứng như chống ngứa chẳng hạn. Có thể dùng Acetaminophen (Tylenol) để giảm sốt và đau nhức thường đi kèm các bệnh nhiễm siêu vi trong giai đoạn đầu. Không bao giờ được dùng aspirin hoặc những thuốc cảm có chứa aspirin cho trẻ em do nguy cơ xảy ra hội chứng Reye (một bệnh chuyển hoá nặng gồm tổn thương não và gan dẫn đến tử vong).

Cách chữa bệnh thủy đậu nhanh khỏi không để lại sẹo
Cách chữa bệnh thủy đậu nhanh khỏi không để lại sẹo


Tắm thường xuyên bằng nước ấm và xà phòng trung tính sẽ bớt ngứa. Ngoài ra, có thể bôi lên da các dung dịch làm dịu và làm ẩm như dung dịch calamine.

Chlorpheniramine, fexofenadine v.v. hoặc các loại thuốc kháng histamine khác có tác dụng giảm ngứa. Hãy bàn luận với bác sĩ về các chọn lựa trong điều trị.

Ngoài thuốc men, cần áp dụng một số biện pháp dự phòng khác. Với trẻ nhỏ, nên cắt sát móng tay để tránh tổn thương da do gãi và đề phòng nguy cơ nhiễm trùng thứ phát.

Sau cùng, đối với một số trường hợp thuỷ đậu có thể dùng Acyclovir. Acyclovir là một thuốc kháng virus được sử dụng để rút ngắn thời gian của bệnh. Thuốc chỉ hiệu quả nếu được dùng sớm, trong thời gian từ 1 đến 2 ngày khi bắt đầu phát ban thuỷ đậu. Acyclovir thường được chỉ định cho những bệnh nhân có bệnh kèm theo nguy hiểm (ví dụ lupus, đái tháo đường, người cao tuổi, bệnh nhân suy giảm miễn dịch).
 
Các biến chứng của bệnh thủy đậu

Thuỷ đậu có thể gây biến chứng. Khi các mụn nước vỡ ra và bị nhiễm trùng có thể gây sẹo xấu, đặc biệt khi bệnh nhân gãi nhiều ở vùng tổn thương. Các biến chứng gồm có:

- Nhiễm trùng da là biến chứng của thuỷ đậu thường gặp nhất ở trẻ em.

- Biến chứng khác thường gặp là tổn thương thần kinh trung ương bao gồm những rối loạn ở tiểu não (rối loạn thất điều tiểu não, chóng mặt, run, rối loạn ngôn ngữ), viêm não (nhức đầu, co giật, rối loạn ý thức), tổn thương thần kinh (liệt thần kinh) và hội chứng Reye (kết hợp tổn thương gan và não khả năng gây tử vong, có thể xảy ra do dùng aspirin ở trẻ em).

- Các biến chứng đặc biệt nặng có thể xảy ra trên bệnh nhân AIDS, lupus, bịnh bạch cầu, và ung thư. Biến chứng còn xảy ra trên những bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn dịch, như các corticoid. Trẻ sơ sinh có mẹ bị thuỷ đậu ở 3 tháng cuối của thai kỳ sẽ chịu những nguy cơ cao của bệnh. Nếu mẹ phát bệnh thuỷ đậu 5 ngày trước hoặc 2 ngày sau khi sanh, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh có thể lên đến 30%.
Bệnh thủy đậu có thể chữa khỏi hoàn toàn mà không để lại di chứng nếu phát hiện kịp thời và chữa trị đúng cách. Đối với bệnh nhân mắc bệnh này thì cần phải được cách ly để điều trị tại các cơ sở y tế. Nhưng do không nhận thức đúng về bệnh thủy đậu, nên hiện nay phần lớn người mắc bệnh đều không đến điều trị tại các cơ sở y tế mà chữa tại nhà bằng phương pháp dân gian, không đảm bảo vệ sinh nên dễ dẫn đến bội nhiễm. Không ít người mặc bệnh sau đó đã để lại di chứng là sẹo thâm trên mặt, ảnh hưởng đến thẩm mỹ.

NHỮNG LƯU Y KHI BỊ THỦY ĐẬU

Những lưu ý khi bị thủy đậu
Những lưu ý khi bị thủy đậu
Thủy đậu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính gây dịch do virut Varicella zoster gây ra. Bệnh thường nhẹ nhưng rất dễ lây.

Người bệnh là nguồn lây duy nhất. Người ốm làm lây bệnh ngay từ khi có triệu chứng đầu tiên cho đến khi nốt đậu đóng vảy (thường ở ngày thứ 7 kể từ khi đậu mọc). Virut từ đờm dãi, nước mũi, nước bọt trẻ ốm bắn sang người lành khi nói, ho hoặc hắt hơi, xâm nhập vào cơ thể qua mũi-họng, rồi theo đường máu đến cư trú ở lớp tế bào thượng bì da và niêm mạc (niêm mạc miệng, kết mạc mắt...) và gây nên những nốt phỏng ở đó.

Tỷ lệ mắc bệnh thường cao ở các đô thị, nơi đông dân và trong những tháng lạnh. Tuổi mắc nhiều nhất là 2-7 tuổi, ít khi gặp ở trẻ dưới 6 tháng. Người lớn cũng mắc nếu như lúc nhỏ chưa mắc.

Sau một thời gian ủ bệnh chừng 14-15 ngày thì bệnh phát. Trong nhiều trường hợp, trẻ vẫn ăn, chơi bình thường làm cho người mẹ không để ý, đến khi đậu mọc mới biết hoặc tình cờ phát hiện được một vài nốt ở đầu. Có khi trẻ sốt nhẹ, sổ mũi, biếng ăn, không chịu chơi, đau mỏi các khớp, dễ kích thích, ngứa, rồi 24-36 giờ sau đậu mọc. Ban mọc khắp nơi, không theo một trình tự nhất định: ban mọc nhiều ở da đầu, trong các kẽ chân tóc. Đậu thường thưa, nhưng cũng có trường hợp mọc dày chi chít, mọc cả ở niêm mạc miệng, kết mạc mắt rồi vỡ ngay.

Thoạt đầu, những nốt đỏ giống như ban sởi, vài giờ sau thành nốt phỏng. Nốt phỏng rất nông trông như giọt sương, hình quả xoan; nếu lấy hai ngón tay căng nốt phỏng ra, ta sẽ thấy mặt nốt phẳng nhăn lại. Các nốt này mọc rất nhanh và mọc làm nhiều đợt cách nhau 2-3 ngày, do đó ở cùng một vùng da, có thểí gặp đủ loại nốt: có nốt to, nốt nhỏ, có nốt đỏ, nốt phỏng, có nốt đã đóng vảy. Nhìn chung, sức khỏe của trẻ ít thay đổi. Đến ngày thứ 4-6, nốt đậu đóng vảy, vảy có màu nâu sẫm. Một tuần sau vảy bong và không để lại sẹo. Bệnh khỏi và cơ thể thu được miễn dịch bền vững.

Người lớn chưa từng mắc cũng có thể bị bệnh và bệnh thường nặng. Người bệnh thường sốt cao 39-40oC, trằn trọc, mê sảng; nốt phỏng có thể kèm theo máu.

Phụ nữ có thai bị thủy đậu trong nửa đầu của thai kỳ có thể gây dị dạng ở não bộ, da... của bào thai.

Với trẻ suy dinh dưỡng, còi xương, những người bị eczema hoặc có bệnh về máu, bệnh thường nặng, nốt phỏng hay bị loét, hoại tử, có chứa chấy nhày màu xám; có khi còn gây viêm thận cấp, viêm tai giữa, viêm phổi, viêm loét giác mạc, viêm tủy thoáng qua, viêm màng não vô khuẩn.

Nếu trẻ gãi nhiều hoặc chăm sóc vệ sinh không chu đáo, nốt phỏng có thể bị bội nhiễm gây nhiễm khuẩn da nặng hoặc nhiễm khuẩn máu do vi khuẩn tụ cầu.

Thủy đậu là một bệnh nhẹ, song rất cần được chăm sóc chu đáo để không xảy ra biến chứng.

- Trẻ ốm phải cho cách ly tại nhà trong suốt thời gian từ khi bệnh bắt đầu cho đến khi bong hết vảy. Trước khi cho trẻ trở lại vườn trẻ, lớp học... phải tắm gội trẻ cho sạch vảy.

- Giữ cho da của trẻ luôn luôn sạch sẽ. Quần áo phải được giặt bằng xà phòng và nước sạch rồi là trước khi mặc. Chú ý giữ sạch tay và cắt ngắn móng tay; trẻ nhỏ phải cho mang bao tay, xoa bột tan (talc) vô khuẩn hoặc phấn rôm khắp người để trẻ đỡ ngứa. Hằng ngày (ngày 2-3 lần) nhỏ mắt, mũi thuốc sát khuẩn như chloramphenicol 0,4% hoặc acgyrol 1%.

- Khi nốt phỏng vỡ, chỉ nên bôi thuốc xanh metilen; không được bôi mỡ tetraxiclin, mỡ penixilin hay thuốc đỏ.

- Không được tự ý dùng thuốc kháng sinh. Mọi trường hợp nhất thiết phải được thầy thuốc thăm khám bệnh chỉ định và hướng dẫn cụ thể.

- Khi thấy trẻ đột nhiên sốt cao hoặc nốt phỏng mọc dày chi chít, hoặc chảy nước mắt tự nhiên, sợ ánh sáng cần cho trẻ đi khám bệnh ngay.

Bạn yên tâm, bệnh thủy đậu không phải là bệnh đậu mùa. Bệnh đậu mùa là bệnh mang tính truyền nhiễm và đôi khi là bệnh hay lây nguy hiểm đến tính mạng, gây ra bởi siêu vi trùng Variola. Loại bệnh đậu mùa thường được thấy và gây ra nguy hiểm được gọi là Variola chủ.

Thủy đậu là một bệnh ngoài da do virus gây ra, rất thường gặp ở trẻ em. Tác nhân gây bệnh là virus varicella-zoster, tuy nhiên bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi.

Các nốt thủy đậu mọc rất nhanh và mọc làm nhiều đợt cách nhau 2-3 ngày, có thể gặp đủ loại nốt đậu độ tuổi khác nhau (nốt to, nhỏ, nốt đỏ, nốt phỏng, nốt đã đóng vẩy).

Thủy đậu lây truyền rất nhanh, có thể có biến chứng nguy hiểm khi các mụn nước vỡ ra và bị nhiễm trùng, có thể gây sẹo xấu, đặc biệt khi bệnh nhân gãi nhiều ở vùng tổn thương, nhiễm trùng da là biến chứng của thủy đậu thường gặp nhất.

Khi phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bệnh thường tiến triển lành tính: đậu thường thưa, đến ngày thứ 4 hoặc ngày thứ 6, nốt đậu đóng vẩy, vẩy có màu nâu sẫm. Một tuần sau bong vẩy và không để lại sẹo.

Trường hợp của em do bệnh thủy đậu bị nhiễm trùng nên để lại sẹo rỗ, tiếc là không có cách chữa dân gian nào chữa được sẹo này để hướng dẫn cho em, sẹo này phải nhờ đến công nghệ siêu dẫn kim cương, siêu mài mòn.

Công nghệ siêu dẫn kim cương sẽ dùng những hạt tinh thể kim cương bắn vào bề mặt để lấy đi lớp da sừng sần sùi, tổn thương lâu ngày, đồng thời kích thích tái tạo lại lớp da mới từ bên dưới.

Thủy đậu là một bệnh lây nhiễm do siêu vi có tên là Varicella Zoster. Bệnh thường gây ra tổn thương da dưới dạng các mụn - bóng nước có quầng da đỏ xung quanh. Ngoài ra bệnh có thể gây tổn thương nội tạng như viêm phổi…

Các tổn thương da có thể tự lành sau 7-10 ngày hoặc biến mất nhanh hơn khi được uống thuốc kháng siêu vi trong vòng 1-2 ngày đầu. Khi lành, tổn thương da biến mất hoàn toàn mà không để lại sẹo bởi vì các mụn - bóng nước này nằm rất nông trên da.

Tuy nhiên nếu tổn thương da bị bội nhiễm vi trùng hóa thành các mụn - bóng mủ hoặc bị dị ứng hoặc kích ứng chồng lên do cách chăm sóc không đúng như không tắm khi bị bệnh hoặc đắp lá cây cỏ… thì sẽ có nguy cơ để lại sẹo tại các tổn thương da.

Như vậy khi thủy đậu chỉ gây tổn thương trên da mà không ảnh hưởng nội tạng thì vấn đề quan trọng là chăm sóc da tránh để bị nhiễm trùng và hạn chế tối đa khả năng lây lan cho người khác (siêu vi có thể lây qua đường thở hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết của các mụn - bóng nước bị bể). Chúng ta nên chăm sóc bệnh như sau:

1. Thuốc uống: chỉ nên dùng theo sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa nhiễm, da liễu hoặc nhi.

2. Thuốc bôi:


• Khi tổn thương còn mụn - bóng nước thì dùng các thuốc bôi màu như Milian, Eosin 2%... Các thuốc này có tác dụng kháng khuẩn và giúp làm khô tổn thương.

• Khi tổn thương đã khô mài màu nâu vàng, các thuốc bôi dạng gel hoặc kem chứa kháng sinh được dùng. Các thuốc này vừa ngăn ngừa tổn thương khỏi bị nhiễm trùng vừa giúp làm giảm cảm giác căng và khó chịu trên bề mặt tổn thương.

• Khi tổn thương đã khô mài, không có mủ thì có thể dùng các thuốc giúp liền sẹo như Madecassol, Curiosin, Cicaplast, Epithélial… Các thuốc này sẽ kích thích tăng sinh các sợi liên kết, đàn hồi, hỗ trợ vết thương lành đẹp.

3. Chăm sóc khác: bổ sung đầy đủ các vitamin và yếu tố vi lượng cho da thông qua chế độ ăn hoặc thuốc uống. Không nên bôi bất kỳ thuốc bôi hoặc đắp cây cỏ hạt… theo truyền miệng mà chỉ nên dùng thuốc bôi theo sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Giữ vệ sinh cơ thể sạch sẽ. Nghỉ ngơi nhiều. Hạn chế tiếp xúc người khác trong khoảng thời gian 5-7 ngày đầu phát ban.

BÀI THUỐC NAM CHỮA THỦY ĐẬU


Thủy đậu còn gọi thủy hoa, dân gian hay gọi là bệnh trái rạ. Đây là loại bệnh truyền nhiễm thông thường, trẻ em hay mắc phải, thỉnh thoảng cũng gặp ở người lớn. Sau đây là cách phân loại bệnh và những vị thuốc nam dễ tìm để chữa trị căn bệnh này.

1. Loại nhẹ

Triệu chứng: Sốt nhẹ hoặc không sốt, chảy nước mũi, ho ít, ăn uống bình thường, các nốt đậu mọc rải rác màu hồng nhạt, ngứa nhiều.

Phép chữa: Sơ phong thanh nhiệt.

Bài thuốc: Lá dâu tằm tươi 30 g rửa sạch, lá tre tươi 20 g, cỏ màn chầu tươi 20 g rửa sạch thái ngắn, cam thảo đất tươi 20 g thái ngắn. Nước 1.000 ml, sắc còn 300 ml, mỗi lần uống 30-50 ml, chia uống trong ngày.

Nếu người bệnh không sốt nóng, mụn đậu mọc thưa ít, ăn ngủ, tiêu tiểu bình thường, có thể không cần uống thuốc, nên dùng nước đun sôi để nguội tắm rửa, tránh gió và điều dưỡng tốt.

2. Loại nặng

Triệu chứng: Sốt cao, buồn phiền, khát, thủy đậu mọc dày, sắc tím tối, mặt đỏ, miệng môi khô hồng, niêm mạc miệng có những nốt phỏng.

Phép chữa: Thanh nhiệt giải độc là chủ yếu.

Bài thuốc: Vỏ đậu xanh hoặc đậu xanh cả vỏ 20-30 g, rau om tươi 20 g rửa sạch, quả dành dành 16 g, kim ngân hoa 16 g, rễ cỏ tranh 12 g. Bài thuốc này nên sắc 2 lần. Lần đầu cách sắc như bài thuốc trên, lần sau đổ 600 ml nước sắc còn 200 ml, dồn lại với nước thứ nhất, cô lại còn 300 ml chia 2 lần uống trong ngày. Trẻ em tùy theo tuổi có thể dùng 1/2 liều. Dùng liên tục cho đến khi khỏi hẳn.

BÀI THUỐC CHỮA BỆNH THỦY ĐẬU BẰNG Y HỌC CỔ TRUYỀN

bài thuốc chữa thủy đậu
bài thuốc chữa thủy đậu

Theo y học cổ truyền, thủy đậu là do phong nhiệt xâm phạm vào phế qua đường miệng. Đây là bệnh thường ở phần vệ và phần khí, rất ít khi gặp ở phần huyết.

Cần phát hiện sớm

Đối với thủy đậu, sau một thời gian ủ bệnh khoảng trên dưới 2 tuần thì bệnh phát. Nhiều trẻ mắc bệnh vẫn ăn ngủ chạy nhảy bình thường, nên người lớn ít để ý cho đến khi thủy đậu mọc, hoặc tình cờ phát hiện được một vài nốt ở đầu khi gội đầu cho trẻ. Có khi trẻ sốt nhẹ, sổ mũi, biếng ăn, bỏ chơi, ngứa… Một số trẻ lớn có thể kêu đau mỏi các khớp, và 2-3 ngày sau thủy đậu mọc. Thoạt đầu là ban, nhìn giống ban sởi, mọc khắp nơi ở da đầu, trong các kẽ chân tóc, vài giờ sau thành nốt phỏng. Nốt phỏng rất nông, có hình quả xoan, trông như giọt sương, nếu lấy hai ngón tay căng nốt phỏng ra sẽ thấy mặt nốt phẳng nhăn lại. Các nốt đậu mọc rất nhanh và mọc làm nhiều đợt cách nhau 2-3 ngày, do đó ở cùng một vùng da có thể gặp đủ loại nốt đậu: to, nhỏ, đỏ, phỏng, hay nốt đã đóng vảy. Nếu bị bội nhiễm vi khuẩn, nốt đậu sẽ làm mủ, sưng to và rất ngứa làm trẻ gãi trầy da, để lại sẹo sâu.

Nhìn chung, khi được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bệnh thường tiến triển lành tính, một tuần sau vảy bong và không để lại sẹo. Nhưng nếu không được phát hiện sớm, không chăm sóc điều trị kịp thời và đúng cách, bệnh sẽ nặng và gây ra nhiều biến chứng.

Một số bài thuốc

Với trường hợp nhẹ - thủy đậu mọc rải rác, sốt nhẹ; có khi không sốt, ho ít, nước mũi trong loãng, ăn uống và tinh thần bình thường (bệnh chỉ có ở phần vệ), thì phương pháp chữa là sơ phong thanh nhiệt. Bài thuốc gồm các vị: lá dâu 12g, lá tre 16g, cam thảo đất 8g, bạc hà 6g, rễ sậy 10g, ngân hoa 10g, kinh giới 8g. Sắc uống ngày 1 thang. Nếu nặng hơn - thủy đậu mọc nhiều, màu sắc tím tối, xung quanh nốt đậu có màu đỏ sẫm, sốt cao phiền khát, mặt đỏ, niêm mạc miệng có những nốt phỏng, rêu lưỡi vàng, chất lưỡi đỏ (tà vào phần khí và phần dinh), thì bài thuốc gồm các vị: bồ công anh 16g, kinh nhân 12g, tế sinh địa 12g, liên kiều 8g, xích thược 8g, chi tử sao 8g. Nếu khát nước nhiều, miệng khô thì thêm: thiên hoa phấn, sa sâm, mạch môn (mỗi loại 8-12g). Sắc uống ngày 1 thang - ban đầu cho 3 chén nước, sắc các vị thuốc còn lại 1,5 chén; nước hai cho tiếp 3 chén nước vào, sắc còn lại 1 chén. Hòa hai nước lại, chia dùng 3 lần trong ngày.

Sau cùng, cần tham khảo thêm ý kiến từ nhà chuyên môn để có hướng điều trị tốt hơn cho từng trường hợp.
Lưu ý:
Khi một đứa trẻ đã bị  thủy đậu, trẻ sẽ có miễn dịch đối với bệnh này cho phần còn lại trong cuộc sống của trẻ sau này. Tuy nhiên, virus có thể trở lại giống như bệnh zona.